Chí Phèo là một tác phẩm xuất sắc, thể hiện nghệ thuật viết truyện đ [..] Nguồn: vi.wikipedia.org: 2: 3 4. Chí Phèo. 1. tên một nhân vật trong truyện ngắn cùng tên của tác giả Nam Cao. Chí Phèo là một tên côn đồ nghiện rượu, hay có trò vừa đi vừa chửi đổng, gây sự với TIẾT 1: Phần một:Tác giả Nam Cao I.Vài nét về tiểu sử và con người : II. SỰ NGHIỆP VH: 1. Quan điểm nghệ thuật : 2. Các đề tài chính : 3. Phong cách nghệ thuật : *PHẦN HAI:TÁC PHẨM CHÍ PHÈO I . TÌM HIỂU CHUNG: 1. Hoàn cảnh ra đời : 2 . Tóm tắt tác phẩm II . ĐỌC-HIỂU VB : 1. Câu 16: Nêu những nghệ thuật đặc sắc của truyện ngắn Chí Phèo? Câu trả lời: Xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo: Nam Cao sở trường về miêu tả tâm lí nhân vật; có khả năng đi sâu vào nội tâm Đặc điểm không gian - thời gian nghệ thuật trong truyện "Chí Phèo" của Nam Cao trên bình diện thi pháp học A. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn tiêu biểu nhất thế kỉ XX. Sáng tác của ông đã vượt qua Chí Phèo - Thị Nở trong phim "Làng Vũ Đại ngày ấy". PGS.TS Việt Trung khẳng định, tác phẩm Chí Phèo mang ý nghĩa hiện thực, giá trị nhân văn và giá trị nghệ thuật đặc sắc, là một trong những tác phẩm văn xuôi xuất sắc nhất, là niềm tự hào của nền văn học Việt Nam hiện đại. Xuất phát từ tấm lòng trân trọng, ngưỡng mộ tài năng đó của nhà văn, tôi lựa chọn đề tài "hình tượng không gian-thời gian trong trong Chí Phèo" (Nam Cao) để có dịp tìm hiểu kĩ hơn về nghệ thuật tác phẩm của một nhà văn hiện thực đầy xuất sắc và đây cũng là lTTDD. “Nam Cao đã không hạ mình xuống bắt chước ai, không nói những cái người ta đã nói, không tả theo cái lối người ta đã tả. Ông đã dám bước chân vào làng văn với những cạnh sắc của riêng mình. Những cạnh sắc ấy, nếu ông cứ giữ cho nó sắc mãi thì chúng ta có thể tin ở tương lai văn nghiệp ông. Vườn văn Việt Nam thiếu những bông hoa lạ, thiếu những nghệ sĩ táo bạo, thiếu những bản thể đặc biệt.” – Trích lời tựa tuyển tập “Đôi lứa xứng đôi”, nhà văn Lê Văn Trương viết. “Chí Phèo” được nhà văn Nam Cao đặt tên trong bản thảo là “Cái lò gạch cũ”, nhưng có lẽ nhằm gây chú ý cho công chúng đương thời, nhà văn Lê văn Trương khi viết lời tựa cho tập truyện đã đổi thành “Đôi lứa xứng đôi”. Về sau, khi in lại truyện này trong tuyển tập “Luống cày” tập truyện của 4 tác giả Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, Kim Lân tác giả Nam Cao đổi tên truyện của mình thành “Chí Phèo”. Xem thêm tác phẩm Việt Nam danh tác Tố Tâm Cánh hoa sa mưa Ai hát giữa rừng khuya – Gương mặt lạ trong Việt Nam danh tác Số đỏ Đứa con đáng tự hào của “Ông vua phóng sự đất Bắc” Truyền kì mạn lục Chuyện về người con gái Nam Xương “Chí Phèo” kể về cuộc đời người nông dân lương thiện bị lưu manh hóa. Chí là một đứa trẻ bị bỏ rơi ngay từ lúc lọt lòng, may mắn được người ta nhặt về nuôi rồi trở thành canh điền nhà kỳ mục Bá Kiến ở làng Vũ Đại. Vì ghen mà Bá Kiến đẩy Chí vào ngục giam. Bảy, tám năm sau Chí trở về làng gây sự với kẻ đã khiến mình đi tù, nhưng lại bị viên kỳ mục này lợi dụng, Chí trở thành tay chân của Bá Kiến, trở thành kẻ chuyên nghề đâm thuê chém mướn. Suốt vài chục năm liền Chí chìm trong những cơn say, làm việc ác trong lúc say, đến nổi không biết rằng mình đã trở thành một con quỷ dữ trong làng. Một ngày kia, sau một cuộc rượu say sưa, trên đường về nhà, giữa vườn chuối trên bãi sông, Chí bỗng thấy một người đàn bà. Chí gặp Thị Nở, sau buổi đêm ấy, sau cơn sốt ngày kế tiếp, sau bát cháo hành nghi ngút khói, cuộc đời Chí lần đầu tiên tỉnh táo sau bao nhiêu năm say… Chí thèm lương thiện, nhưng tất cả dường như đã muộn rồi. Câu chuyện xây dựng thành công sự xung đột vô cùng quyết liệt của hai nhóm người thuộc hai tầng lớp trong xã hội thực dân nửa phong kiến nhóm cường hào, vai vế bề trên gồm những Bá Kiến, Lý Cường, Đội Tảo… và nhóm cùng đinh lưu manh hóa gồm những Chí Phèo, Binh Chức, Năm Thọ… Nhóm cường hào cai trị, bòn rút đám đông dân quê, lại cũng cạnh tranh, sát phạt nhau… Chính vì vậy, nhóm cùng đinh lưu manh hóa đã được bọn cường hào sử dụng làm công cụ để trừng trị lẫn nhau và áp chế dân làng. Truyện “Chí Phèo” khái quát một hiện tượng xã hội ở làng quê Việt Nam trước năm 1945, một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường lưu manh hóa. Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thể xác và tâm hồn người nông dân lao động, đồng thời khẳng định bản chất lương thiện của họ vẫn luôn cưỡng lại quá trình tha hóa đó, ngay cả khi bị vùi dập nhân hình, nhân tính. “Chí Phèo” là một tác phẩm có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Ngoài ra cũng rất mới mẻ bởi nghệ thuật ngôn ngữ đặc sắc của Nam Cao. Bằng ngôi thứ ba vô hình, biết tuốt, lời văn như kẻ đứng bên trong nhân vật, hoặc đứng kề nhân vật, khiến cho việc mô tả các biến động tâm lý nhân vật trở nên hết sức sinh động. Những cơn say của Chí Phèo, dòng suy nghĩ của Chí, sự chuyển hướng bất ngờ từ suy nghĩ sang hành động… Tất cả những mảnh vụn đều trở nên liền mạch, có lý, sáng tỏ và dễ hình dung. Truyện “Chí Phèo” hầu như được giới nghiên cứu và giới mộ điệu nhất trí xem là một kiệt tác, đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Nam Cao, đồng thời là kiệt tác đỉnh cao của văn xuôi tự sự Việt Nam những năm 1930 – 1945. “Chí Phèo” xuất hiện trong bộ môn nghệ thuật thứ bảy cùng với hai tác phẩm khác của Nam Cao là “Sống mòn” và “Lão Hạc”, bằng cái tên “Làng Vũ Đại ngày ấy” được sản xuất năm 1982 bởi đạo diễn, NSND Phạm Văn Khoa. Vai Chí Phèo do NSƯT Bùi Cường đảm nhận – cũng là nhân vật đưa tên tuổi của ông sống mãi với thời gian. “Làng Vũ Đại ngày ấy” là một bộ phim nổi tiếng được xếp vào hàng những tác phẩm kinh điển của nền điện ảnh Việt Nam thế kỷ XX. Nghệ thuật thoát ra từ những kiếp lầm than Điểm lại xuyên suốt sự nghiệp văn chương của Nam Cao, có thể khẳng định rằng ông đã luôn giữ được những “cạnh sắc” nguyên sơ như thuở ban đầu. Văn phong, tư tưởng và nghệ thuật của ông được định hình từ rất sớm, có lẽ vì vậy mà kiệt tác “Chí Phèo” đã ra đời ngay từ cuốn sách đầu tay. Tuyển tập truyện ngắn “Đôi lứa xứng đôi” là sản phẩm đầu tay của Nam Cao, ra mắt bởi NXB Đời Mới tại Hà Nội vào năm 1941, gồm 7 truyện Đôi lứa xứng đôi Chí Phèo Nguyện vọng Hai khối óc Giờ lột xác Chú Khì người đánh tổ tôm vô hình Ma đưa Cái chết của con Mực Xuất bản trong giai đoạn mà cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đang diễn ra khốc liệt, sự chú ý của người đương thời hầu như đều tập trung vào chiến trận từ châu Á tới châu Âu, có lẽ vì thế mà tập truyện “Đôi lứa xứng đôi” khá im ắng trong dư luận văn học nghệ thuật thời bấy giờ. Phải gần hai mươi năm sau đó, thời kỳ miền Bắc phục hồi các vết thương chiến tranh, đất Hà thành được hòa bình, các giá trị thực sự trong sáng tác của Nam Cao mới được thừa nhận rộng rãi trong giới sáng tác, nghiên cứu và phê bình văn học. Nếu “Chí Phèo” khai thác đề tài người nông dân bị nhóm cường hào áp bức đến tận cùng, bị lưu manh hóa thành công cụ gieo rắc tội lỗi dẫn đến kết cục đồng quy vô tận để giải thoát bản thân; thì “Nguyện vọng” là sự bế tắc của một nhà giáo nghèo với một mộng tưởng xa vời khi đất nước còn long đong; “Hai khối óc” là tình yêu tuyệt vọng giữa kẻ giàu người nghèo; “Giờ lột xác” là nỗi quằn quại của giới trí thức dưới chế độ cũ, đau đớn của thời kỳ lột xác – mà ánh sáng cách mạng là chất dẫn để thời kỳ đó kết thúc trong niềm hân hoan; “Cái chết của con Mực” cũng là trang viết về nỗi lòng lực bất tòng tâm của người trí thức nghèo trước thời cuộc; riêng hai truyện “Ma đưa” và “Chú Khì người đánh tổ tôm vô hình” thuộc loại truyện ma, trong đó Nam Cao ghi lại những nét thuộc đời sống tâm linh, tâm thức dị đoan của người dân các làng quê thời đấy. Nhân vật chính đều là những “kiếp lầm than” phản ánh đời sống bần hàn của người dân Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Nhật và thực dân Pháp trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Thông qua những tấn bi kịch của người nông dân và người trí thức trong xã hội cũ thể hiện trong từng tác phẩm, Nam Cao thể hiện sự quan tâm sâu sắc tới hai vấn đề lớn của con người là quyền được sống lương thiện và điều kiện để phát huy tài năng để sống một cuộc sống có ích, có ý nghĩa. Nam Cao không chỉ đồng tình với khát vọng sống lương thiện mà còn cổ vũ cho khát vọng được cống hiến, được sáng tạo của người trí thức, người nghệ sĩ chân chính. Tranh cãi về đề xuất bỏ tác phẩm “Chí Phèo” ra khỏi sách giáo khoa Cuối năm 2017, Nguyễn Sóng Hiền – lúc ấy là nghiên cứu sinh tiến sĩ trường ĐH Newcastle Australia – nêu quan điểm nên đưa tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao ra khỏi chương trình Ngữ Văn 11. Nguyễn Sóng Hiền lập luậnxf “Chí Phèo chẳng đại diện cho ai cả. Anh ta chỉ đơn giản là một đứa trẻ không được giáo dục, bị lưu manh hóa. Nếu nói rằng Chí đại diện cho tầng lớp nông dân bị áp bức thì thật là “tội nghiệp” cho nông dân mình quá. Trong thời gian làm thuê cho Bá Kiến, Chí vẫn được xem là con người trong xã hội ấy, người ta vẫn nhận nuôi Chí, cho ăn, cho công việc. Sau khi bị Bá Kiến đẩy đi tù vì ghen, Chí mới tha hóa. Khi Chí say, Chí chửi người đẻ ra Chí chứ đâu chửi xã hội. Sống trong xã hội hiện đại, một đứa trẻ rơi vào hoàn cảnh ấy, chưa chắc đã có cách xử sự khác hoặc cuộc đời khá khẩm hơn. Đó là một thực tế đau lòng phải chấp nhận. Chí Phèo phải bị phê phán vì hành vi cưỡng bức Thị Nở. Nở là người bị hại, bị Chí lợi dụng lúc ngủ say để cưỡng bức. Vậy thì tại sao chúng ta có thể ghép đôi cho một kẻ lưu manh với cô gái vô tội? Chưa kể sau này, Nở lại mang bầu và lại ôm thêm nỗi khổ vào thân. Dù đánh giá ở khía cạnh nào đi nữa, Chí vẫn là kẻ xấu.” Đọc được tin, bà Trần Thị Hồng con gái nhà văn Nam Cao bày tỏ rằng, bất cứ một tác phẩm văn học nào được đưa vào sách giáo khoa dạy cho học sinh chắc chắn phải được hội đồng biên soạn mổ xẻ nhiều góc cạnh, cân nhắc kỹ lưỡng, qua nhiều khâu, và tiếp thu ý kiến từ các chuyên gia, các nhà phê bình văn học. “Anh Nguyễn Sóng Hiền nói tác phẩm không có tính giáo dục là ý của cá nhân anh Hiền. Đây là lần đầu tiên gia đình tôi nghe được ý kiến trái chiều về tác phẩm.” – Bà Hồng chia sẻ. Bởi đây là “ý kiến trái chiều” hiếm hoi về tác phẩm được coi là kiệt tác của nền văn học trước năm 1945, từ một người có học thức cao, nên khiến dư luận khá xôn xao ở thời điểm đó. Khách quan thì, bất cứ một tác phẩm văn học kinh điển nào, ngoài giá trị văn học, chúng còn có giá trị lớn lao về mặt lịch sử, “Chí Phèo” cũng không ngoại lệ. Và khi phân tích các tác phẩm đó, cần đặt chúng vào thời gian lịch sử nơi chúng thuộc về, có thế thì mọi giá trị và tư tưởng mới tìm được vị trí đúng sáng. Với “Chí Phèo”, Nam Cao không chỉ viết về một cuộc đời bị lưu manh hóa và quá trình cưỡng lại sự phi nhân hóa đó, mà còn vẽ lại cả một thế hệ, một xã hội với những tầng lớp, những đau khổ mà người dân Việt Nam phải chịu đựng dưới ách thống trị thực dân, thấu được những điểm mù lịch sử, học sinh thời nay sẽ hơn bao giờ hết cảm thấy biết ơn Cách mạng Tháng Tám, biết ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh vì nền hòa bình hiện tại đến nhường nào. Đây là một trong những giá trị giáo dục. “Chí là kẻ xấu” ? Không. Chí luôn khát khao thiện lương và thèm được thiện lương. Chí chỉ rạch mặt, chỉ ăn vạ, chỉ đáng sợ… khi Chí say, khi men rượu kiểm soát hành vi, Chí trở thành kẻ liều. “Thế đấy cái nghề đời hiền quá cũng hóa ngu, ở đâu chứ ở đất này đã ngu, đã nhịn thì chúng nó ấn cho đến không còn ngóc đầu lên được.” Cái xã hội mà công lý nằm trong tay kẻ có quyền và kẻ mạnh, đã ép buộc Chí phải trở thành kẻ liều. Thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ nhì sợ kẻ cố cùng liều thân, đời không cho Chí có cơ hội làm anh hùng, thì Chí phải liều mới có thể được sống. Chí Phèo là nhân vật của thời đại, là hình tượng đáng thương của người nông dân vốn thiện lương dưới chế độ thực dân nửa phong kiến bị ép vào đường cùng, đó là quy luật “con giun xéo mãi cũng quằn.” Đây là một trong những giá trị nhân đạo. Nam Cao là nhà văn hiện thực kiệt xuất, đồng thời là nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Chủ nghĩa nhân đạo lấy con người làm gốc, con người với tất cả mọi nhu cầu chính đáng, năng lực trần thế và hiện thực. Nhà phê bình văn học, nhà nghiên cứu văn học, cây bút biên dịch thông tin văn học nghệ thuật Lại Nguyên Ân viết “Điều đáng kể là Nam Cao không chỉ mô tả những nông dân lưu manh hóa như những con người bị tha hóa, mất nhân tính, trở thành những công cụ gieo rắc tội lỗi, gieo rắc sự kinh hoàng vào đời sống làng quê. Ở nhân vật Chí Phèo, như nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra, Nam Cao đã cho thấy cả xu thế tha hóa, vật hóa, phi nhân hóa ở những nông dân lưu manh hóa, lại cũng cho thấy cả sự cưỡng lại quá trình vật hóa, phi nhân hóa ở những nông dân ấy. Việc Chí Phèo đến nhà Bá Kiến đòi “được làm người lương thiện”, rồi biết rằng không thể nào xóa đi những tội lỗi mình từng gây ra theo lệnh viên kỳ mục ấy, Chí xông đến giết lão rồi tự sát – hành vi ấy được nhiều nhà nghiên cứu xem như biểu hiện sự cưỡng chống quyết liệt trước xu thế tha hóa ấy của người nông dân, của con người nói chung.” PGS Đỗ Ngọc Thống, Tổng chủ biên chương trình môn Ngữ văn mới, thẳng thắn cho rằng quan điểm đưa tác phẩm Chí Phèo ra khỏi sách Ngữ văn lớp 11 của nghiên cứu sinh Nguyễn Sóng Hiền, là không đáng bàn. Vài nét về Nam Cao Nam Cao 1917 – 1951 tên thật là Trần Hữu Tri, không những là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất thế kỷ XX, mà còn là một chiến sĩ, liệt sĩ. Trước Cách mạng, ông là nhà văn hiện thực lớn. Sau Cách mạng, ông là một nhà báo kháng chiến. Nam Cao có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XX. Nam Cao đóng góp cho nền văn học Việt Nam hiện đại 60 truyện ngắn, 1 tiểu thuyết. Các tác phẩm của nhà văn Nam Cao nói chung, trong tuyển tập truyện ngắn “Đôi lứa xứng đôi” nói riêng, điển hình là “Chí Phèo”, thuộc dòng văn học hiện thực mang hơi thở của thời đại, có giá trị văn học, lịch sử, giáo dục và nhân đạo vô cùng to lớn trong kho tàng văn học nước nhà. Quan điểm sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng Trước Cách mạng, Nam Cao có hai quan điểm sáng tác chính. Một là, văn chương phải chân thực, phản ánh đúng bản chất cuộc sống. Hai là, văn chương cần sáng tạo. Giao thoa giữa hai quan điểm ấy, văn chương phải phản ánh cuộc sống nhưng không nên sao chép y nguyên hiện thực cuộc sống, nhà văn cần phải sáng tạo dựa trên trách nhiệm và thiên chức của người cầm bút. “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật có thể chỉ là những tiếng đau khổ kia thốt ra từ những kiếp lầm than.” – Trích “Giăng sáng” 1942 – Nam Cao. Ở tập truyện ngắn đầu tay này, Nam Cao tập trung khám phá xã hội làng quê người Việt, cụ thể là làng xã miền Bắc, nơi mà sự phân tầng xã hội đã chia thành những nhóm người, những loại người, từ những dân làng vô danh, người nông dân, nhà giáo nghèo, viên chức nhỏ đến bọn cường hào, địa chủ… mà nhân vật chính thường là người nông dân và người trí thức nghèo. Những nhân vật trong văn của Nam Cao đều rất đời, được lấy cảm hứng từ chính những con người mà ông từng tiếp xúc. Link mua sách Fahasa Shopee Tiki Lazada Duyên Nếu bạn thấy bài viết này hay, xin ủng hộ team bằng cách dành thêm một giây để click vào quảng cáo. Chỉ 1s thôi, nhưng là cách tuyệt vời để duy trì blog mãi mãi Chí Phèo là một trong những truyện ngắn thành công nhất của nhà văn Nam Cao, tác phẩm có sức sống bền vững theo thời gian, neo đậu vững chắc trong lòng người đọc xuyên suốt năm tháng và là ngôi sao sáng bậc nhất trên bầu trời văn học Việt Nam. Tác phẩm là bản án đanh thép tố cáo một xã hội thực dân nửa phong kiến tàn ác và mục ruỗng đã dồn người nông dân thấp cổ bé họng vào bước đường cùng, dẫn đến bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật để rồi cuối cùng lại hình thành nên con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Đồng thời, Chí Phèo còn khắc họa thành công hình ảnh người nông dân nghèo bị bần cùng hóa bởi đói kém bám riết, bị chèn ép bởi xã hội cũ khiến cho họ phải đánh mất đi bản chất thiện lương vốn có của mình. Đôi nét về tác giả Nam Cao và kiệt tác Chí Phèo Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, ông sinh năm 1917 tại huyện Lý Nhân, Hà Nam và mất vào năm 1951 tại Ninh Bình. Ông là một trong những nhà văn tiêu biểu cho dòng văn học hiện thực Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ XX. Những trang văn của Nam Cao luôn chứa đựng mối quan hoài thường trực về số phận bất hạnh của những người nông dân và người tri thức nghèo bị đói kém bám riết, bị xã hội đương thời chèn ép để rồi cuối cùng lại lạc đi trên bước đường làm người. Chân dung của nhà văn Nam Cao Ngòi bút của ông vừa sắc sảo vừa chân thực, trào phúng nhưng không thiếu phần tinh tế. Nam Cao mạnh dạn phân tích và mổ xẻ tất cả, không né tránh như Thạch Lam, không phiến diện như Vũ Trọng Phụng nhưng vẫn giữ được sự tỉnh táo trong văn chương. Nguyễn Minh Châu từng nhận định về văn chương của ông rằng ”Trong các trang truyện của Nam Cao, trang nào cũng có những nhân vật chính hoặc phụ đang đối diện với cái chỗ kiệt cùng với đời sống con người để rồi từ đó bắt buộc người ta phải bộc lộ mình ra, trước hết là tâm lí, nhân cách rồi tiếp đến sau cùng là cái nỗi đau khôn nguôi của con người.’’ Những tác phẩm của Nam Cao luôn lột tả cho người đọc thấy được cái bản chất xấu xa của xã hội và nhân tính hủ lậu của con người đương thời. Bén duyên với nghiệp văn từ năm mười tám tuổi và trong suốt mười lăm năm hành nghề, ông đã để lại cho đời sau một khối lượng tác phẩm khổng lồ từ truyện ngắn đến tiểu thuyết, tên tuổi Nam Cao gắn liền với những tác phẩm để đời như Sống mòn, Lão Hạc hay Đời thừa. Tác phẩm Chí Phèo trong tuyển tập truyện ngắn nổi tiếng của Nam Cao Trong đó không thể không nhắc đến Chí Phèo, một truyện ngắn có sức ảnh hưởng lớn đến văn đàn Việt Nam, đây là tác phẩm đã neo đậu vững chắc trong lòng độc giả qua bao thế hệ. Chí Phèo ban đầu có tên là Cái lò gạch cũ, xuất bản vào năm 1941 với tên Đôi lứa xứng đôi do Nhà xuất bản Đời mới – Hà Nội tự ý đổi tên. Tác phẩm về sau được Nam Cao đặt tên là Chí Phèo khi in lại trong tập Luống Cày do Hội văn hóa cứu quốc xuất bản vào năm 1946. Ảnh minh họa cho hai nhân vật Chí Phèo và Thị Nở Chí Phèo là một tác phẩm thể hiện rõ nét lối đi riêng biệt của Nam Cao trong sự nghiệp văn học, tập trung vào số phận của những người nghèo khổ ở quê hương. ’’Nghệ thuật không là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối! Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp người lầm than.” Tác phẩm không phải là một truyện ngắn dịu dàng lãng mạn hay cảm động lòng người, Chí Phèo là một tấm gương hiện thực đặt giữa xã hội đương thời, là bản án đanh thép tố cáo xã hội cũ và là một cái nhìn bế tắc cho những kiếp người bất hạnh. Những tiếng kêu đau khổ của những kiếp người lầm than thoát ra từ trang sách Tác phẩm mở đầu bằng hàng loạt tiếng chửi của Chí Phèo ngay từ những dòng văn đầu tiên của truyện ngắn, Nam Cao đã để người đọc thấy được chất lưu manh trong con người Chí, ông đẩy hắn ra giữa vở kịch của cuộc đời và để hắn đối thoại với đời bằng câu chửi. Những tiếng chửi đó dường như mở ra một cuộc đời ảm đạm đầy chua xót của Chí Phèo, xen lẫn trong câu chửi, người ta thấy được cả sự cô độc của hắn. Không một ai đáp lại lời Chí ngoài tiếng sủa của ba con chó dữ, hắn cứ chửi trời, chửi đất và chửi cả cái đứa đã đẻ ra thằng Chí. Tượng gốm của các nhân vật trong tác phẩm Còn ai đã đẻ ra Chí Phèo thì hắn không biết, cả làng Vũ đại không ai biết, đó có lẽ là bi kịch đầu tiên của truyện, bi kịch bám riết đời Chí từ khi hắn sinh ra với thân phận một đứa trẻ mồ côi, được người ta nhặt về ở lò gạch cũ và sống lang hết nhà này đến nhà khác trong những năm tháng ấu thơ. Năm hai mươi tuổi, Chí Phèo đi làm canh điền cho nhà Bá Kiến, chánh tổng hội đồng kỳ hào của làng Vũ Đại. Cụ Bá là người có quyền thế lại tâm cơ, ai cũng nể sợ. Năm đó Chí Phèo ở cho nhà cụ được vợ ba của Bá Kiến thường xuyên gọi lên hầu hạ xoa bóp tay chân. Chính điều này đã làm nổi lên máu ghen trong lòng Bá Kiến, cụ đã giải Chí Phèo lên quan, để hắn chịu một tội nào đó được sắp đặt sẵn và đi tù tám năm, chính cái nhà tù thực dân ấy đã tiếp tay cho bọn cường hào chèn ép những người nông dân lương thiện. Chí Phèo rạch mặt ăn vạ trước nhà Bá Kiến Sau những năm tháng tù đày, Chí trở về với một bộ dạng khác, kinh tởm và gớm ghiếc. Hắn đã đánh mất đi nhân hình cùng nhân tính của mình cho thù hận, để rồi người trở về làng Vũ Đại hôm nay không còn là Chí Phèo nữa mà là một con quỷ dữ khiến ai cũng phải khiếp sợ. “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm […]. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!” – Trích đoạn miêu tả Chí Phèo. Nam Cao khắc họa rõ nét gương mặt của Chí qua từng con chữ như phản ánh một sự thật tàn nhẫn đến đau lòng, chính những bất công cùng sự chèn ép của tầng lớp thống trị trong xã hội cũ đã đẩy một con người thiện lương vào bước đường tha hoá, khiến họ đánh mất đi nhân tính của chính mình. Chí Phèo từ đây đã bị xã hội cự tuyệt đi quyền làm người, bị loại ra khỏi thế giới vốn dành cho loài người để rồi hắn lại tự biến mình trở thành quỷ dữ của làng Vũ Đại “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện.” – Trích đoạn truyện ngắn Chí Phèo. Ai gặp Chí cũng khiếp sợ và tìm cách lảng tránh, giữa thời buổi loạn lạc đói kém chẳng ai muốn có thêm cho mình một mối phiền phức ”Ai cũng tránh mặt hắn mỗi lúc hắn qua.” Cuộc đời của Chí Phèo trượt dài trong bi kịch, nhuốm đầy bất hạnh và khổ đau. Đời hắn bây giờ không có gì ngoài những tiếng chửi, rượu và vài miếng thịt sống qua ngày, chẳng ai còn được thấy hình ảnh anh Chí hiền như đất khi xưa nữa, thay vào đó là con quỷ gớm ghiếc mà ai cũng xa lánh. Con quỷ của làng Vũ Đại xuất hiện trên màn ảnh Việt Nam Vậy mà Bá Kiến đã lợi dụng được con quỷ trong con người Chí Phèo để khiến nó làm việc cho cụ, bằng những lời dụ dỗ ngon ngọt cùng đôi đồng bạc lẻ, Bá Kiến đã thành công trong việc thu Chí về làm tay chân cho mình để hắn đi đòi nợ, đâm thuê chém mướn vào những lúc cần. Người ta gọi Chí Phèo là quỷ nhưng chính tầng lớp thống trị cũng như bọn cường hào đương thời mới thực sự là quỷ dữ. Chúng đã ăn mòn đi những mơ ước bình dị, những điều tốt đẹp trong con người của một người nông dân. Chí Phèo có chăng cũng chỉ là nạn nhân của thời cuộc, của những tội ác mục ruỗng thối nát chất chồng hết lớp này đến lớp khác. Ánh sáng lương tâm một lần nữa phát sáng nhưng cũng bị hiện thực tàn khốc dập tắt Trong tận cùng của bế tắc, khi Chí Phèo đã hoàn toàn đánh mất phần người của mình và chỉ còn lại phần con, Nam Cao vẫn nhìn thấy ở đâu đó trong thâm tâm hắn vẫn còn khát khao được yêu thương, mơ ước một lần nữa được hòa nhập lại với thế giới, được sống như một con người thực sự. Nhân vật Thị Nở trong phim Làng Vũ Đại ngày ấy Vậy nên ông đã cho Thị Nở, một người phụ nữ xấu đến ma chê quỷ hờn xuất hiện để khơi dậy phần người trong sâu thẳm của Chí Phèo. “Cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công; nó ngắn đến nỗi người ta có thể tưởng bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má hóp vào mới thật là tai hại, nếu má phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn… Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi; có lẽ vì cố qua quá cho nên chúng nứt nở như rạn rạ. Đã thế thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bôi cho dày thêm một lần, cũng may chất trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách.” – Trích đoạn miêu tả Thị Nở. Chính đêm ăn nằm như vợ chồng ấy cùng những ngày tháng ở bên Thị, bên bát cháo hành nghi ngút khói đã khiến Chí như thức tỉnh khỏi giấc mộng tăm tối của đời mình. Sau những ngày tháng bị hắt hủi và miệt thị bởi số đông loài người ngoài kia, Thị Nở là người đầu tiên khiến Chí Phèo cảm nhận được sự yêu thương, giúp hắn nhìn ra được cuộc đời vẫn còn ý nghĩa. Sự xuất hiện của Thị Nở là một bước ngoặt độc đáo đầy tính nhân văn của Chí Phèo, Nam Cao xây dựng Thị là một con người xấu xí không phải để miệt thị mà nhằm làm nổi bật lên nội tâm đầy tình thương của Nở. Bát cháo hành đổi lấy sự lương thiện của một con quỷ Chính Thị đã nhìn ra một con người khác của Chí Phèo mà không ai trong làng Vũ Đại có thể thấy được, như cách lời văn của Nam cao đã miêu tả. ”Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người.” Những tưởng cuộc sống của Chí đã khởi sắc sau ngày gặp Thị và từ đây hắn có thể quay trở về trên con đường làm người nhưng tất cả đã vỡ nát ngay sau khi bà cô của Thị Nở xuất hiện. Nhân vật bà cô là điển hình cho hình tượng người nông dân sống ở làng quê nông thôn Bắc Bộ trước Cách mạng tháng Tám, đó là một xã hội tha hóa về mọi mặt, từ quyền lực đến cả nhân cách của con người. Sống giữa thời kỳ loạn lạc ấy khiến người ta quẩn quanh bế tắc trong sự nghèo đói, làm họ trở nên lạnh lùng, tàn nhẫn hơn với chính mình và cả những người xung quanh. Cái định kiến hẹp hòi về xuất thân, nguồn gốc và quá khứ có sức ảnh hưởng ghê gớm đến suy nghĩ của con người, chính những định kiến đó đã dựng nên một bức tường cách trở Chí Phèo với thế giới loài người. Kể cả khi Chí được Thị Nở tái sinh bằng tình yêu khiến hắn thèm làm người, khát khao được hòa nhập với mọi người đến thế nào thì cũng không thể vượt qua được bức tường ấy. Bằng một câu nói, bà cô trong tác phẩm đã dập tắt đi tất cả hy vọng của Chí Phèo, khiến hắn rơi vào vực sâu tuyệt vọng, mất đi hoàn toàn tư cách được làm người. “Đàn ông chết hết cả rồi sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy một thằng chỉ có một nghề là đi rạch mặt ra ăn vạ.” – Câu nói của bà cô trong truyện ngắn. Để rồi cuối cùng, Chí Phèo đã đi gặp Bá Kiến để đòi lại lương thiện, thứ mà mỗi con người sinh ra đều mang sẵn trong người. Bi thảm thay những kiếp người đã đánh mất đi nhân tính của mình vào nghèo đói và tay bọn cường hào. ”Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa.” – Câu chất vấn đầy ám ảnh của Chí Phèo. Chí Phèo giết Bá Kiến và cũng kết liễu đời mình, đó có lẽ là sự giải thoát cho Chí khỏi cuộc đời tăm tối, khổ đau cùng bất hạnh. Cái chết của hai nhân vật mang nhiều tầng ý nghĩa mà Nam Cao đã gửi gắm. Chí Phèo là bản án đanh thép tố cáo bộ mặt xấu xa của xã hội cũ Nó vừa tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến thối nát đã bức người nông dân đến cùng đường tuyệt lộ, vừa nêu lên ý thức phản kháng của tầng lớp thấp, dù cho sự phản kháng này là đơn độc và liều lĩnh. Bá Kiến chết trong những tội lỗi mà hắn gây ra, còn Chí Phèo chết trong thân xác một người cố nông đáng thương lại đáng trách, đến lúc gục xuống bên vũng máu của mình vẫn chưa đòi lại được sự lương thiện. Nhưng chưa dừng lại ở đấy, bi kịch lại càng tiếp nối bi kịch khi Thị Nở bỗng nhớ đến đêm ăn nằm với Chí Phèo và nhìn xuống bụng của mình, rồi nghĩ – Nói dại, nếu mình chửa, bây giờ hắn chết rồi, thì làm ăn thế nào? Câu hỏi của Thị không có lời hồi đáp, nó như một chuỗi bi kịch không cách nào kết thúc. Để rồi mai đây vẫn nơi lò gạch cũ ấy, một Chí Phèo con lại ra đời và cũng là lúc một con quỷ nữa được hình thành. Chí Phèo là vàng được đãi trên dòng sông hiện thực Người nông dân nghèo luôn là chủ đề mà các nhà văn đương thời hướng ngòi bút đến, tuy nhiên Nam Cao vẫn để lại những dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả qua lối văn riêng biệt của mình, với ông ’’Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có…’’ Vì vậy có thể nói Chí Phèo chính là vàng được đãi từ dòng sông hiện thực đã qua tay bao nhà văn đi trước, tuy nhiên tác phẩm không vì thế mà đi theo khuôn mòn của chủ đề người nông dẫn mà đã đột phá theo cách riêng để trở thành một kiệt tác. Tác phẩm Chí Phèo được dựng thành kịch biểu diễn trên sân khấu Chính điều đó đã giúp cho tác phẩm trở thành một áng văn chương bất hủ neo đậu vững chắc trong lòng người đọc muôn đời. Hình ảnh Chí Phèo đã vượt ra khỏi những trang văn, chạm vào đời sống con người và tái hiện lại cho chúng ta thấy một hiện thực tàn khốc do xã hội đương thời gây nên và đã trở thành một áng văn điển hình. Tác phẩm chính là giọng nói riêng của Nam Cao, một chất giọng tàn nhẫn chua chát nhưng ẩn sâu bên trong là sự ấm nóng của tình thương mà không tìm được ở bất kỳ nhà văn nào khác. Chí Phèo được chuyển thể thành tiểu phẩm hài Không dừng lại ở đó, Chí Phèo còn kết hợp với hai tác phẩm lớn của Nam Cao là Lão Hạc và Sống mòn để chuyển thể thành phim lấy tên là Làng Vũ Đại ngày ấy, bộ phim đã để lại nhiều ấn tượng sâu đậm trong lòng khán giả cả nước trong suốt một thời gian dài. Giá trị của văn phẩm Chí Phèo vươn tầm thế giới Được mệnh danh là vàng đãi từ dòng sông hiện thực, Chí Phèo luôn mang trong mình trong mình một giá trị sâu sắc cả về nội dung lẫn nghệ thuật, chính sự tàn khốc của hiện thực cùng tính nhân văn cao cả đã khiến văn phẩm trở thành một kiệt tác của văn đàn Việt Nam. Không dừng lại ở đó, giá trị mà tác phẩm mang lại đã vượt xa khỏi biên giới văn học Việt mà vươn tầm thế giới, Chí Phèo được ra mắt bạn đọc nước ngoài bởi NXB Đại học Oxford nổi danh thế giới, chỉ đứng sau Đại học Cambridge. Trước đó, NXB này từng cho ra đời tuyển tập The light of the capital Three modern Vietnamese classics bao gồm các văn phẩm nổi danh bậc nhất của nền văn học hiện thực đầu thế kỷ XX như Tam Lang Tôi kéo xe, Nguyên Hồng Những ngày thơ ấu hay Vũ Trọng Phụng Cơm thầy cơm cô Không chỉ dừng lại ở nước Anh, Chí Phèo còn được dịch sang tiếng Pháp với với tên Chi Pheo, paria casse cou et autres nouve, ngoài sử dụng làm tài liệu tham khảo luận văn tiến sĩ ở Đại học Tây Úc và Victoria ở nước Úc. Bên cạnh đó, văn phẩm còn được trưng bày ở thư viện của trường Đại học Stanford danh giá của Mỹ. Ngoài ra, Chí Phèo cũng được so sánh với các văn phẩm khác như AQ chính truyện của Lỗ Tấn và Những người cùng khổ của Victo Hugo Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã thể hiện niềm tin tuyệt đối vào bản tính lương thiện của con người, đồng thời cũng khẳng định rõ ràng một điều rằng nghệ thuật không phải ánh trăng lừa dối, nghệ thuật là tiếng kêu đau khổ thoát ra từ những kiếp người lầm than. Chí Phèo chính là con diều lớn nhờ ngọn gió hiện thực mà bay cao, bay xa trên bầu trời văn học, trở thành một điểm sáng nổi bật giữa văn đàn Việt Nam. Diệu Uyển Có phải bạn đang tìm kiếm chủ đề về => Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Chí Phèo phải không? Nếu đúng như vậy thì mời bạn xem nó ngay tại đây. Xem thêm các bài tập khác tại đây => Giáo dục Tác phẩm Chí Phèo là một tác phẩm xuất sắc của nhà văn Nam Cao nói riêng và nền văn học Việt Nam nói chung. Đây là một truyện ngắn không chỉ mang giá trị nội dung vô cùng sâu sắc mà giá trị nghệ thuật nó còn là một chủ đề vô cùng hay trong chương trình Ngữ Văn lớp 11 cần nhớ. Kiểm tra các chi tiết dưới đây Tóm lượcGiá trị nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm Chí Phèo – Nam CaoGiá trị nội dung và nghệ thuật trong Chí PhèoGiá trị nội dung trong tác phẩm Chí Phèo của Nam CaoGiá trị nghệ thuật trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao Tóm lượcGiá trị nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm Chí Phèo – Nam Cao Để có thể nhớ hết những giá trị về nội dung và nghệ thuật, bạn có thể nhớ những chi tiết quan trọng như sau Về nội dung Bạn đang xem Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Chí Phèo – Tố cáo xã hội phong kiến ​​bất công khiến con người sinh ra là người nhưng không được làm người – Qua đó nhấn mạnh hình ảnh, bản chất tốt đẹp của người dân lao động ngay cả khi tưởng đã bị xã hội tàn bạo cướp đi sinh mạng. Về nghệ thuật – Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật – Nghệ thuật miêu tả tâm lí tài tình. – Nghệ thuật trần thuật, kết cấu tươi tắn, uyển chuyển, phóng túng – Ngôn ngữ, giọng điệu sôi nổi – Cốt truyện độc đáo, tình tiết gay cấn. Để hiểu thêm về tác phẩm, các bạn có thể tham khảo bài viết Soạn bài Chí Phèo với những phân tích chi tiết để làm nổi bật giá trị của tác phẩm. Giá trị nội dung trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao – Giá trị thực Sự áp bức, bóc lột, tàn ác của thực dân, phong kiến ​​đối với nông dân trong xã hội cổ đại Số phận của những người nông dân Việt Nam trước cách mạng vô cùng bi đát, bị bần cùng hóa và trở thành kẻ du côn. Họ bị đẩy vào con đường tha hóa, trác táng và cái chết là điều tất yếu để giải thoát họ khỏi đau khổ. – Giá trị nhân đạo Lên án gay gắt xã hội phong kiến, thực dân tàn bạo đã hủy hoại cả thể xác và tâm hồn của người nông dân lao động hiền lành, chất phác. Dẫn chứng Mẫu mực của một xã hội có đủ mọi tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ là chân dung những con người như Bá Kiến, như bà Thị Nở, như dân làng Vũ Đại. . Đồng cảm, sẻ chia, đau xót khi chứng kiến ​​những người dân hiền lành, lương thiện bị hành hạ, biến thành quỷ dữ của cả làng Vũ Đại. Trích dẫn Cho dù Chí Phèo có khao khát được trở lại làm người lương thiện thì xã hội ích kỷ, hẹp hòi cũng không chừa chỗ cho hắn. Anh ta chỉ còn một con đường duy nhất, đó là cái chết, để giữ lại sự lương thiện cuối cùng trong con người mình. Khẳng định niềm tin của tác giả vào bản chất lương thiện của người nông dân Trích dẫn Ngay cả khi họ bị vùi dập, mất đi cả nhân tính và con người thì khát vọng được sống, được yêu và được hạnh phúc vẫn chưa bao giờ bị dập tắt trong họ. Như lời cảnh báo của tác giả đối với số phận của những người nông dân Việt Nam trước Cách mạng, nếu không thay đổi thì cuộc sống của họ sẽ bế tắc, vô vọng, tha hóa, lưu manh và cái chết sẽ là điều tồi tệ nhất. không thể tránh khỏi. Trích dẫn Điều này được thể hiện qua chi tiết Thị Nở xem nhanh bụng bầu và dự đoán một đứa bé Chí Phèo sẽ ra đời. Giá trị nghệ thuật trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao 1. Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật Chí Phèo và Bá Kiến là những tấm gương tiêu biểu trong tác phẩm. Sinh động, độc đáo, không lặp lại, mang tính khái quát cao về mâu thuẫn gay gắt ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng, đặc biệt là nhân vật Chí Phèo. Ông là tấm gương sinh động cho những người nông dân bị quân tàn bạo tiêu diệt, tha hóa đến cùng -> xây dựng nhân vật điển hình sắc nét. 2. Nghệ thuật miêu tả tâm lí tài tình. Trong truyện ngắn đã tạo nên những đoạn văn hay. Số phận và bi kịch của Chí Phèo được khắc sâu qua những đoạn văn hay như đoạn Chí Phèo tỉnh dậy sau một đêm say và gặp Thị Nở; đoạn Chí Phèo bị từ chối tình yêu… 3. Cốt truyện độc đáo, tình tiết gay cấn, luôn thay đổi mang đến nhiều bất ngờ cho người đọc Kết cấu hình tròn, khép kín đã tạo nên chiều sâu cho truyện cổ tích Truyện mở đầu bằng hình ảnh đứa trẻ trần truồng xám xịt nằm cạnh lò gạch cũ, kết thúc bằng hình ảnh Thị Nở cúi gằm mặt suy nghĩ mông lung. đến một lò gạch xa vắng không người qua lại … => Kết cấu này thể hiện số phận bế tắc, vướng mắc của kiếp người trong xã hội bóc lột. Chí Phèo đã chết thì còn bao nhiêu kiếp nữa Chí Phèo sẽ lặp lại? 4. Ngôn ngữ, giọng điệu sôi nổi Ngôn ngữ và giọng điệu của Nam Cao được thể hiện một cách sinh động và đa dạng trong truyện ngắn này. Ngòi bút hiện thực vừa tỉnh táo, khách quan, vừa lạnh lùng, vừa đằm thắm, vừa trữ tình như hòa quyện, thẩm thấu vào nhau. Ngoài ra, giọng kể cũng thay đổi phù hợp với diễn biến tâm lý nhân vật, có khi sử dụng lời kể trực tiếp, có khi nửa trực tiếp, có khi có sự đan xen giữa hai giọng kể trên một cách nhịp nhàng, uyển chuyển. nhuyễn các ví dụ đoạn mở đầu tác phẩm, đoạn miêu tả tâm trạng khi ăn bát cháo hành, đoạn độc thoại nội tâm của Bá Kiến. 5. Cách tường thuật linh hoạt và cực kỳ hấp dẫn Đoạn văn mở đầu rất độc đáo, gây ấn tượng mạnh bởi lối kể nửa trực tiếp, có sự xen kẽ lời kể của người kể Vừa đi vừa chửi … với lời độc thoại của nhân vật Ôi! Giận dữ quá! …. Tác giả đã phá vỡ trật tự thông thường, sử dụng lối trần thuật theo dòng nội tâm của nhân vật để tường thuật lại diễn biến. Vì vậy, trong lời kể, hiện tại và kí ức được đan xen đoạn mở đầu, đoạn miêu tả Chí Phèo “tỉnh dậy sau một cơn say rất dài” ở cuối truyện,…, người kể và lời nhân vật đôi khi. hợp nhất, làm cho điểm nhìn trần thuật thay đổi linh hoạt có khi câu chuyện được trần thuật với cái nhìn khách quan từ bên ngoài, đôi khi lại biến thành điểm nhìn chủ quan của nhân vật. đối tượng từ bên trong. So với quy mô của một truyện ngắn, tác phẩm Chí Phèo tương đối dài nhưng không gây nhàm chán vì cách kể luôn thay đổi và các đoạn độc thoại nội tâm sinh động như đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật Chí Phèo sau khi tỉnh dậy. Kết luận Những cảm nhận và đánh giá chung về giá trị nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm Chí Phèo. Bạn có thể đưa ra những suy nghĩ và ý tưởng của mình về tác phẩm. Trên đây là những nội dung cơ bản của việc đánh giá và phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm Chí Phèo – Nam Cao. Hi vọng bài viết này sẽ giúp các bạn củng cố những kiến ​​thức đã học về tác phẩm và vận dụng làm bài phân tích giá trị nội dung nghệ thuật của tác phẩm! Chúc may mắn trong kỳ thi! Trình bày, phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao trong chương trình Ngữ văn lớp 11 tập 1. Đăng bởi THPT Sóc Trăng Thể loại Giáo dục Bạn thấy bài viết Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Chí Phèo có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Chí Phèo bên dưới để có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Tài liệu khóa học Luyện thi Đại học môn Ngữ văn. Đề bài Nghệ thuật đặc sắc trong “Chí Phèo”“Chí Phèo” thật sự là một kiệt tác, thể hiện đầy đủ nhất tài năng nghệ thuật xuất sắc, độc đáo của nhà văn Nam Cao. 1. Bút pháp điển hình hoá đạt tới trình độ bậc thầy trong xây dựng nhân vật. Nam Cao có biệt tài trong việc miêu tả, phân tích tâm lý nhân vật. Tác giả có khả năng trong việc miêu tả tâm lý phức tạp của nhân vật, làm cho nhân vật hiện lên trước mắt người đọc rất sống động, có cá tính độc đáo. Chí Phèo, Bá Kiến là những điển hình nghệ thuật bất hủ. Họ vừa tiêu biểu cho một loại người có bề dày xã hội, vừa là những con người rất cụ thể, có sức sống nội tại mạnh mẽ. a. Khác với những nhân vật của một số nhà văn đương thời có chức năng chủ yếu là khái quát tính cách nhân vật. “Chí Phèo” của Nam Cao đã khái quát một hiện tượng phổ biến đã trở thành quy luật trong xã hội lúc bấy giờ; hiện tượng những người nông dân nghèo lương thiện do bị áp bức bóc lột đè nén nặng nề bị đẩy vào con đường tha hoá lưu Tuy nhiên nhân vật của Nam Cao còn thể hiện như một nhân vật có cá tính hết sức độc đáo, không lặp lại, vừa đa dạng vừa thống nhất. Chí Phèo vừa là kẻ bán rẻ cả nhân tính, nhân hình để tồn tại, vừa là kẻ dám thủ tiêu sự sống của mình khi nhân phẩm đã trở về. Chí Phèo vừa là con quỷ dữ của làng Vũ Đại, một thằng triền miên chìm trong cơn say đến mất cả lý trí, vừa là kẻ khao khát lương thiện, muốn làm hoà với mọi người, vừa là một kẻ nô lệ thức tỉnh, một đầu óc sáng suốt nhất, tỉnh táo nhất của làng Vũ Đại khi đặt ra những câu hỏi có tầm khái quát sâu sắc về quyền được làm người lương thiện đến mức Bá Kiến cũng phải ngạc nhiên, Chí Phèo vừa là kẻ cố cùng, vừa là người tự xưng “anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”2. Nghệ thuật trần thuật kể truyện linh hoạt tự nhiên phóng túng mà vẫn nhất quán, chặt chẽ, đảo lộn trình tự thời gian, mạch tự sự có những đoạn hồi tưởng, liên tưởng tạt ngang, tưởng như lỏng lẻo mà thực sự rất tự nhiên, hợp lý, hấp Ngôn ngữ của Nam Cao cũng đặc biệt tự nhiên, sinh động, sử dụng khẩu ngữ quần chúng một cách triệt để, mang hơi thở đời sống, giọng văn hoá đời sống. Ngôn ngữ kể chuyện vừa là ngôn ngữ của tác giả, vừa là ngôn ngữ của nhân vật, nhiều giọng điệu đan xen, tạo nên một thứ ngôn ngữ đa thanh đặc sắc.“Chí Phèo” đánh dấu một trình độ phát triển mới của văn học và nghệ thuật viết truyện ở nước ta. Giáo viênNguyễn Quang Ninh. Nguồn – Ngôi trường chung của học trò Việt Trang 1 Tác phẩm Chí Phèo là một tác phẩm xuất sắc của nhà văn Nam Cao nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Đây là một truyện ngắn không chỉ đem lại giá trị nội dung vô cùng sâu sắc, mà giá trị nghệ thuật của nó cũng là một đề tài vô cùng hay trong chương trình Ngữ văn lớp 11 cần ghi nhớ. Cùng tham khảo nội dung chi tiết dưới đây Tóm tắtgiá trị nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm Chí Phèo – Nam CaoGiá trị nội dung và nghệ thuật trong Chí PhèoGiá trị nội dung trong tác phẩm Chí Phèo của Nam caoGiá trị nghệ thuật trong tác phẩm Chí Phèo của Nam cao Tóm tắtgiá trị nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm Chí Phèo – Nam Cao Để có thể ghi nhớ được tất cả những giá trị trong nội dung và cả nghệ thuật thì các em có thể ghi nhớ những chi tiết quan trọng như sau Về nội dung Bạn đang xem Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Chí Phèo – Tố cáo xã hội phong kiến bất công khiến con người sinh ra là người mà lại không được làm người – Thông qua đó nhấn mạnh hình ảnh và bản chất tốt đẹp của người dân lao động ngay cả khi tưởng họ đã bị xã hội tàn bạo cướp đoạt tất cả. Về nghệ thuật – Nghệ thuật điển hình hoá nhân vật – Nghệ thuật miêu tả tâm lí tài tình – Nghệ thuật trần thuật, kết cấu mới mẻ, linh hoạt, phóng túng – Ngôn ngữ, giọng điệu sinh động – Cốt truyện độc đáo, các tình tiết giàu kịch tính. Để hiểu rõ hơn về tác phẩm các em có thể tham khảo bài soạn bài Chí Phèo với những phân tích chi tiết để nêu bật giá trị của tác phẩm. Giá trị nội dung trong tác phẩm Chí Phèo của Nam cao – Giá trị hiện thực Sự đàn áp, bóc lột và tàn ác của bọn thực dân, phong kiến đối với những người nông dân trong xã hội xưa Số phận của người nông dân Việt Nam trước cách mạng lại vô cùng thê thảm, bần cùng và trở thành lưu manh. Họ bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa và cái chết là điều tất yếu để giải thoát họ khỏi những đau khổ. – Giá trị nhân đạo Lời kết án đanh thép xã hội thực dân, phong kiến tàn bạo đã phá cả thể xác và tâm hồn người nông dân lao động hiền lành, chất phác. Dẫn chứng Hình ảnh thu nhỏ của cả một xã hội với tất cả các tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ chính là chân dung của những kẻ như Bá Kiến, như bà cô Thị Nở, như những người dân làng Vũ Đại. Niềm cảm thông, chia sẻ, đau xót khi chứng kiến những con người hiền lành, lương thiện bị dày vò, tha hóa thành con quỷ dữ của cả làng Vũ Đại. Dẫn chứng Kể cả khi Chí Phèo đã khao khát quay trở về làm người lương thiện thì xã hội ích kỉ, hẹp hòi kia cũng sẽ không chừa chỗ lại cho hắn. Hắn chỉ còn một con đường duy nhất là cái chết để giữ lại sự lương thiện cuối cùng trong con người mình. Khẳng định niềm tin của tác giả vào bản chất lương thiện của những người nông dân Dẫn chứng Ngay cả khi họ bị vùi dập, mất cả nhân hình lẫn nhân tính thì khao khát được sống, được yêu thương và hạnh phúc cũng chưa bao giờ bị dập tắt trong họ Là lời cảnh báo của tác giá với số phận của những người nông dân Việt Nam trước Cách mạng, nếu không thay đổi thì cuộc sống của họ cũng sẽ bế tắc, tuyệt vọng, tha hóa, lưu manh hóa và cái chết sẽ là điều không thể tránh khỏi. Dẫn chứng Điều ấy được thể hiện qua chi tiết Thị Nở nhìn nhanh xuống dưới bụng và lời dự báo về một Chí Phèo con sẽ ra đời. Giá trị nghệ thuật trong tác phẩm Chí Phèo của Nam cao 1. Nghệ thuật điển hình hoá nhân vật Chí Phèo, Bá Kiến là những điển hình đặc sắc trong tác phẩm. Vừa sinh động, độc đáo, không lặp lại, các nhân vật này mang sức khái quát cao cho mối xung đột diễn ra khốc liệt ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng, đặc biệt là nhân vật Chí Phèo. Hắn là điển hình sinh động cho những người nông dân cố cùng bị hủy hoại, tha hoá đến tận cùng bởi thế lực tàn bạo -> xây dựng nhân vật điển hình sắc nét. 2. Nghệ thuật miêu tả tâm lí tài tình Trong truyện ngắn đã tạo nên những đoạn văn tuyệt bút. Số phận và bi kịch của Chí Phèo được đào sâu cực độ qua những đoạn văn hay như đoạn Chí Phèo thức tỉnh sau đêm say rượu gặp Thị Nở; đoạn Chí Phèo bị cự tuyệt tình yêu… 3. Cốt truyện độc đáo, các tình tiết giàu kịch tính, luôn biến hoá mang lại nhiều bất ngờ cho người đọc Kết cấu vòng tròn, khép kín đã tạo nên chiều sâu cho thiên truyện Mở đầu truyện bằng hình ảnh đứa bé trần truồng xám ngắt nằm bên chiếc lò gạch cũ, kết thúc bằng hình ảnh Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng mình và thoáng nghĩ đến một cái lò gạch xa xôi vắng người qua lại… => Kết cấu này cho thấy số phận bế tắc, quẩn quanh không lối thoát của kiếp người trong xã hội bóc lột. Chí Phèo chết nhưng còn bao nhiêu số kiếp Chí Phèo sẽ lại tái diễn? 4. Ngôn ngữ, giọng điệu sinh động Ngôn ngữ, giọng điệu của Nam Cao được thể hiện một cách sinh động, đa dạng trong truyện ngắn này. Ngòi bút hiện thực vừa tỉnh táo, khách quan, sắc lạnh lại vừa đằm thắm, trữ tình như hòa quyện, xuyên thấm vào nhau. Ngoài ra, giọng trần thuật cũng thay đổi phù hợp với diễn biến tâm lý nhân vật, khi thì dùng lời kể trực tiếp, khi thì nửa trực tiếp, khi lại có sự đan xen giữa hai giọng kể trên một cách nhịp nhàng, nhuần nhuyễn dẫn chứng đoạn văn mở đầu tác phẩm, đoạn miêu tả tâm trạng khi ăn bát cháo hành, đoạn độc thoại nội tâm của Bá Kiến. 5. Cách dẫn chuyện linh hoạt và vô cùng hấp dẫn Đoạn mở đầu rất độc đáo gây ấn tượng mạnh bởi lối trần thuật nửa trực tiếp, có sự đan xen giữa lời người kể chuyện Hắn vừa đi vừa chửi… với độc thoại của nhân vật Ờ! Thế này thì tức thật!…. Tác giả đã phá vỡ trật tự thông thường, dùng lối tự sự theo dòng nội tâm nhân vật để thuật lại diễn biến sự việc. Vì thế, trong lời trần thuật, hiện tại và hồi ức cứ lồng ghép vào nhau đoạn mở đầu, đoạn tả Chí Phèo “bâng khuâng tỉnh dậy sau một cơn say rất dài” ở cuối truyện,…, lời người kể và lời nhân vật có khi nhập vào nhau khiến cho điểm nhìn trần thuật cũng thay đổi một cách linh động lúc thì câu chuyện được thuật lại bằng một cái nhìn khách quan từ bên ngoài, lúc lại chuyển hoá thành điểm nhìn chủ quan của nhân vật từ bên trong. So với dung lượng của một truyện ngắn thì tác phẩm Chí Phèo tương đối dài, nhưng nó không hề nhàm chán bởi cách dẫn chuyện luôn biến ảo cùng những độc thoại nội tâm sinh động chẳng hạn độc thoại nội tâm của nhân vật Chí Phèo sau cơn tỉnh rượu. Kết luận Những cảm nhận và đánh giá khái quát về giá trị của nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm Chí Phèo. Có thể nêu ra suy nghĩ và liên tưởng của em về tác phẩm. Trên đây là những nội dung cơ bản đánh giá và phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm Chí Phèo – Nam Cao. Mong rằng bài viết này sẽ giúp các em củng cố lại kiến thức về tác phẩm và áp dụng làm dạng bài phân tích giá trị nội dung nghệ thuật của một tác phẩm! Chúc các em làm bài tốt ! Trình bày và phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao trong chương trình học Ngữ văn lớp 11 tập 1. Đăng bởi THPT Ngô Thì Nhậm Chuyên mục Giáo dục Phân tích truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao dưới góc độ thi pháp Nam Cao bắt đầu sáng tác từ năm 1936, nhưng đến tác phẩm Chí Phèo, nhà văn mới khẳng định được tài năng của mình. Chí Phèo là một kiệt tác trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, một truyện ngắn có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, mới mẻ, chứng tỏ trình độ nghệ thuật bậc thầy của một nhà văn lớn. Thời gian 1941–1944 là thời sáng tác sung mãn và có hiệu quả nhất trong đời viết văn của Nam Cao. Cố nhiên, ngòi bút viết văn của Nam Cao không đạt kỷ lục nào về số lượng, về độ dài hay độ dày. Cái mà ông đạt tới đỉnh cao là chất lượng mới chất lượng ngôn ngữ nghệ thuật, chất lượng tư duy xã hội và tư duy văn học. Chí Phèo là một truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn Nam Cao viết vào tháng 2 năm 1941. Chí Phèo là một tác phẩm xuất sắc, thể hiện nghệ thuật viết truyện độc đáo của Nam Cao, đồng thời là một tấn bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội. Chí Phèo cũng là tên nhân vật chính của truyện. Trong Chí Phèo của Nam Cao, cái nhìn nghệ thuật của tác giả về con người qua hình tượng Chí Phèo là hai con người trong một con người với sự quyết đấu sinh tử Con người nhân tính, thiên lương và con người tha hóa, ác quỷ. Các điểm nhìn Chí Phèo được thể hiện ở các nội dung tiêu biểu lúc lọt lòng, tuổi ấu thơ với con số không trống trụi, ở đợ nhà bá Kiến và bị hàm oan; Chí Phèo trong quan hệ với bá Kiến và thị Nở, cái kết của số phận Chí Phèo. Cần phải tiếp cận và khai mở thi pháp của hình tượng này trong quan niệm, cái nhìn, điểm nhìn và bút pháp nghệ thuật của Nam Cao ở vấn đề cơ bản nhất là hai con người trong một con người. Đặc điểm này sẽ chi phối những vấn đề khác như không gian, thời gian nghệ thuật, giọng điệu, ngôn từ. Trong cấu trúc thẩm mĩ suốt hành trình cuộc đời của Chí, hai con người có lúc song hành tương hợp, có lúc tương khắc và cuối cùng là sự quyết đấu sinh tử. Ngay điểm chào đời, khởi đầu của lộ trình bi kịch thân phận Chí Phèo, Nam Cao đã đặt con người này ở điểm nhìn trơ trọi, cô lạnh, buồn tủi trên cái nền của lò gạch cũ bỏ không. Đấy không chỉ là dụng ý nói lên sự luẩn quẩn bế tắc của thân phận con người khi lặp lại chi tiết lò gạch cũ trong ý nghĩ của thị Nở ở cuối truyện, mà cơ bản là để tạo một điểm nhấn, một dấu ấn tái tê, sầu tủi vào thân phận, tâm thức Chí Phèo thiếu vắng hơi người, tình người, hương người, đặc biệt là tình ruột thịt. Điều này sẽ ám ảnh Chí mãi và lộ diện bằng nỗi đau tức trong tiếng chửi của Chí Phèo, trong cảm nhận của Chí về thị Nở, trong tiếng kêu đòi lương thiện cuối đời. Tiếp theo đấy, Nam Cao di chuyển điểm nhìn từ Chí Phèo sang những thân phận liên quan, có ý nghĩa tạo nên tính cách của Chí. Đó là những thân phận cũng ít nhiều trống trụi, cô lẻ, thiếu khuyết người đàn bà góa mù, bác phó cối không con. Trước khi đến với bác phó cối thì Chí bị cho, bị bán. Và sau khi bác phó cối không con chết thì Chí bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ. Tại sao lại có lắm chi tiết gắn với con số không đến thế lò gạch cũ bỏ không, người đàn bà góa mù không chồng, mắt không nhìn thấy, bác phó cối không con, rồi không nhà cửa, không người thân, việc đi ở đợ không ổn định, ngay đến cái thẻ có biên tuổi hắn cũng không có trong sổ làng, khi Chí chửi thì không ai lên tiếng. Xâu chuỗi những cái không ấy ở điểm nhìn nhân vật sẽ tạo một hệ qui chiếu rọi vào tâm trạng thuở thiếu thời của Chí, và sẽ thành những khối sầu nặng trĩu khi con số không vẫn được tiếp nối kéo dài, khắc sâu, dù khi Chí đã lớn, đã ở bên kia dốc cuộc đời. Những điểm nhìn không bình luận này của Nam Cao hoàn toàn không phải không có dụng ý mà ngược lại, chúng được cài cấy cho sự khởi đầu và đổ nền hết sức quan trọng trong quá trình thiết kế đời sống tâm lí và nhân cách nhân vật. Những điểm nhìn ấy trong cái nhìn nghệ thuật của Nam Cao mang tính đa trị vừa có tính chất hoàn cảnh, xã hội vừa có tính chất tâm lí. Các chi tiết quan hệ xã hội của Chí là thuộc điểm nhìn không gian bề nổi, và không gian chìm là những dấu ấn buồn tủi, cô đơn, trơ trọi, trống vắng, hoang lạnh vì thiếu vắng tình người trong tâm trạng Chí. Điều đó là đầu mối của những con sóng chìm trong dòng chảy mãi về sau. Do vậy, tiếng chửi, một khi Chí đã thành con quỉ dữ, găm cả vào đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thằng Chí Phèo trong đoạn mở đầu tác phẩm, chi tiết này được nhấn mạnh tới ba lần; và để sau này khi gặp thị Nở với bát cháo hành nóng hổi tình người, Chí sẽ rưng rưng muốn khóc. Như vậy, những tình tiết mở đầu cuộc đời Chí có ý nghĩa như đặt một phần nền móng cho tính cách, nhân cách của Chí về sau; là phần tiền đề cơ bản của con người thứ hai trong con người Chí Phèo tiếc thay, sách Hướng dẫn giảng dạy Ngữ văn 11 đã bỏ qua những chi tiết này khi cho rằng chỉ được nhà văn nói lướt qua bằng mấy câu ở đầu tác phẩm. Hai con người trong Chí đã được thiết kế ở những nét đầu và lộ trình của chúng bắt đầu phát triển, vừa có những lối riêng vừa có những sự tương tác mạnh mẽ trong sự chi phối của hiện thực. Con người bề mặt của tảng băng trôi trên hành trình ma đưa lối quỉ dẫn đường liên tiếp nhận những tai họa đổ xuống đầu, từ cơn ghen của bá Kiến, từ nhà tù thực dân – phong kiến, từ sự lợi dụng và tráo trở quỉ quyệt của bá Kiến khi Chí ra tù… Và do vậy, con người phần chìm của tảng băng là thiếu thốn tình thương, hơi ấm đồng loại, là ý thức về vinh và nhục, tinh thần và thể xác rạch ròi, đúng đắn và khát khao có một mái ấm dù chỉ là chồng làm thuê cuốc mướn, vợ dệt vải…, bị nhấn xuống càng sâu hơn. Sau khi Chí ở tù về, dẫu rằng nhân hình, nhân tính có những thay đổi nhất định nhưng cho tới khi Chí cầm chai đến tính sổ với bá Kiến thì chưa hẳn Chí đã là con quỉ dữ, và đấy vẫn là giai đoạn Chí ý thức rõ được kẻ thù, chưa bồng bềnh trôi trong hoang tưởng và vô định. Việc Chí đến nhà bá Kiến, gọi tận tên tục ra mà chửi ngay khi ra tù được một ngày thể hiện điều đó. Thế nhưng, bá Kiến đã hạ gục Chí bằng ba ngón đòn hiểm độc mà một kẻ như Chí lúc đó không thể đỡ nổi gọi Chí bằng anh, mời vào nhà đãi cơm gà và nhận họ. Ba viên đạn bọc đường này được Chí ngộ nhận là đã tẩy trừ những nỗi đau của con người thứ hai trong mình không gia đình – thì bây giờ đã có họ hàng, mà lại họ hàng với cụ bá, người đời coi thường gọi bằng thằng thì bây giờ đã được gọi bằng anh, thực tế và mặc cảm bé mọn thì đã có vị thế từ đặc ân được đãi cơm gà và cho tiền uống rượu. Đến đây thì con người thứ hai bị chặn lối, bị lạc lối, rẽ sang một bước ngoặt mới trong sự hoang tưởng về giá trị thực của bản thân hắn thấy hắn cũng oai, thử hỏi có mặt nào trong cái làng hơn hai nghìn suất đinh này làm được thế? Vì thế, đêm hôm ấy, ở nhà Bá Kiến ra về, Chí Phèo vô cùng hả hê! Bằng ba ngón đòn độc liên hoàn đánh trúng vào điểm huyệt vừa tâm thức vừa đời thường của Chí Phèo, bá Kiến nhanh chóng thay đổi tình thế chuyển Chí, từ chỗ là kẻ thù, thành kẻ tay sai; chuyển mình, từ chỗ là đối tượng trả thù của Chí, thành ân nhân của Chí. Chí hoàn toàn mất phương hướng. Bây giờ không còn đối tượng trả thù thì sao nguôi giận được khi kẻ thù bỗng chốc thành chủ nhân, mà mối thù và nỗi đau thì còn nguyên đấy! Như vậy là khi ra tù về làng, Chí còn tỉnh lắm nên đã đến nhà bá Kiến đòi nợ ngay. Nhưng sau khi Chí ở nhà bá Kiến về thì Chí ảo tưởng về giá trị bản thân. Từ đây cho đến khi gặp thị Nở, Chí bước vào một nhà tù mới, một nhà tù không có vách ngăn, không có tường bao, không có luôn cả thời hạn được tự do. Chí sẽ làm gì khi còn ôm nguyên mối hận mà không biết trả thù ai? Chí sẽ làm gì khi liên tiếp bị bá Kiến sử dụng làm tay sai cho những chuyện đâm chém để Chí càng hoang tưởng về bản thân hơn khi tự nhủ rằng anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta? Không biết trả thù ai thì lấy việc uống rượu cho nguôi ngoai, đó chính là sự tự hủy hoại bản thân. Và rồi hiển nhiên, hệ quả tất yếu là trút giận lên những người dân hiền lành vô tội. Mà càng như thế tức là Chí càng bị đẩy trượt xa hơn khỏi biên giới loài người. Trong chặng đời này cho tới khi Chí gặp thị Nở, hai con người trong Chí thể hiện rất rõ sự không tương hợp. Theo cách nói của M. Bakhtin thì ở Chí đã xuất hiện sự không tương hợp cơ bản giữa con người bên ngoài và con người bên trong. Hai con người trong Chí vẫn song hành. Trên bề mặt của tảng băng, những hành vi rạch mặt ăn vạ, gây ác cho dân lành hiển hiện hằng ngày. Càng gây sự, càng kiếm chuyện, càng rượu say thì càng tự hủy hoại mình và càng xa loài người. Tuy nhiên, như thế không có nghĩa con người thiên lương, con người nhân tính, con người với bản thể nguyên sơ thèm khát hơi ấm giống người trong Chí đã hoàn toàn biến mất. Nam Cao đã rất tài tình khi hé lộ một phần những sóng ngầm nỗi đau của con người thứ hai trong Chí ở điểm nhìn tiếng chửi của Chí. Có thể coi tiếng chửi của Chí là nhịp cầu nối giữa hai con người trong một con người Chí, là cái mã kí hiệu nghệ thuật lưỡng trị nếu tách riêng ra khỏi toàn cục đời Chí thì đấy là biểu hiện ngang tàng, vô văn hóa, vô đạo đức của con người bề mặt cả làng Vũ Đại hiểu như thế; nếu xét nó như một yếu tố, một phân hệ trong hệ thống thẩm mĩ toàn cuộc đời Chí thì nó mở ra thế giới chìm khuất nỗi buồn, tủi phận, cay đắng của con người thứ hai trong Chí. Vậy bản chất và ý nghĩa tiếng chửi của Chí là gì? Tại sao Nam Cao lại cho xuất hiện kí hiệu này ở vị trí ngay đầu tác phẩm? Trước hết, cần khẳng định ngay rằng tiếng chửi của Chí không phải vô cớ, mà hàm chứa những thông điệp nhất định. Đó là sự oán hận tất cả, coi thường tất cả, phủ nhận tất cả khi chửi trời, chửi đời, chửi làng Vũ Đại. Nhưng tại sao lại chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn? Điều này có vẻ vô lí, ngược đời nhưng hàm chứa trong đó cái lí của nghệ thuật Chí không có gì cả, tất cả chỉ là con số không trống trụi, vô nghĩa; dù bị loài người quay lưng, nhưng Chí vẫn cứ thèm hơi ấm con người. Thế nên, khi không thể tìm được mối dây liên hệ với đồng loại theo lẽ thường thì Chí buộc phải dùng con đường giao tiếp bằng tiếng chửi, thông qua tiếng chửi, vì nếu có ai chửi lại thì Chí có thể tìm được mối dây liên hệ với đồng loại, cho dù chỉ bằng tiếng chửi, qua tiếng chửi. Đấy chính là lí do khi không có ai chửi lại thì Chí tức chết đi được mất và liền chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn! Và tột cùng trong thất vọng, cay đắng, Chí chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này! Rốt cuộc, ngay cả tìm mối liên hệ với con người dù chỉ qua tiếng chửi cũng không được, và chỉ có tiếng đáp trả của ba con chó dữ mà thôi. Càng chửi thì càng tức vì không có ai chửi lại, càng tức thì càng uống, càng say, càng say thì càng có thể làm tất cả vì hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta bảo hắn làm. Đấy là cái vòng luẩn quẩn của Chí trong cái nhà tù mênh mông không vách, không tường, không phạm vi không gian và thời gian sau ba miếng bả bá Kiến tung ra, Chí nhầm tưởng và nuốt vội ngon lành trong ngày xách vỏ chai đến trả hận. Nếu không có tiếng chửi thì phần chìm trong con người Chí không có cơ thể hiện, nếu không có tiếng chửi thì toàn bộ quãng đời từ khi ra tù đến khi gặpthị Nở chỉ có phần nổi là những tội lỗi Chí làm trong khi say và làm vì người ta bảo hắn làm. Đấy chính là ý nghĩa điểm nhìn nghệ thuật tiếng chửi của Chí trong thi pháp cấu trúc nhân vật. Mặt khác, những chi tiết điểm xuyết như hắn làm điều đó trong khi say, hắn làm điều đó vì người ta bảo hắn làm và bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm đã lộn ngược sự tôn trọng trong từ cụ chỉ bá Kiến và sự khinh thị trong từ hắn chỉ Chí Phèo. Theo đó thì khi tỉnh, Chí không làm, nếu người ta không bảo thì Chí không làm. Điều đó bổ trợ thêm để người đọc không hoàn toàn phủ nhận Chí, đồng thời nhận ra rằng đằng sau con người thứ nhất hiển lộ bề mặt với những chửi bới, rạch mặt, đốt nhà, gây hại cho người lành là con người thứ hai vẫn tồn tại, vẫn âm ỉ, day dứt và quặn thắt nỗi niềm như sóng ngầm không ngừng cồn cào trong chiều sâu tâm khảm Chí, nhưng nó không có điều kiện bộc lộ, không biết bám víu vào đâu để nương tựa, giãi bày trong lộ trình trắng, không, bị chừa ra của đời Chí. Chi tiết này được đặt ngay đầu tác phẩm như một điểm nhấn, một cách lạ hóa nhân vật của Nam Cao, một cái then cần được mở từ hiệu ứng của cả hệ thống thẩm mĩ của hình tượng. Cần thiết phải thấy điều này, bởi nếu không thì làm sao một thị Nở như thế mà lại có thể giúp Chí hoàn lương được, cho dù được cộng thêm cả tình tiết trận ốm và tâm trạng cô đơn ở tuổi xế tà bên kia dốc cuộc đời của Chí. Nghĩa là những yếu tố này, tự chúng – dù trong thế hợp lực – cũng không thể đủ sức thanh lọc Chí nếu như không có những cơn đói tình người thuở ấu thơ, và nếu như những cơn sóng ngầm của cồn cào nỗi đau trống vắng trong Chí ở đoạn từ khi ra tù đến khi gặp thị Nở đã hoàn toàn nguội tắt. Những khát khao làm lành với con người, giao cảm với con người vẫn vô cùng mạnh mẽ và hằng thường trong con người thứ hai của Chí ẩn trong tiếng chửi nên khi gặp thị Nở, với quan hệ nhục cảm, với tình thương, hương người trong bát cháo hành cộng thêm nỗi cô đơn trong sự cảm nhận về tuổi già và trận ốm, Chí đã vồ vập ngay. Đấy là hành vi ứng xử của con người bên lề chết khát, chết đói. Được thuốc trị đúng bệnh, Chí bắt đầu thấy bâng khuâng, ăn năn, và những ước mơ có vẻ tầm thường nhưng tội nghiệp, lương thiện xưa lại thấp thoáng hiện về trong hình ảnh chồng làm thuê cuốc mướn, vợ dệt vải… Thị Nở là một điều kiện quan trọng và cần thiết để con người thứ hai chìm khuất trong Chí có dịp ngoi lên, phô mình, hiển lộ. Nhưng tai sao Nam Cao lại xây dựng hình tượng thị Nở như thế? Xây dựng thế để làm gì? Hiệu quả ra sao? Thị Nở là hình tượng độc đáo hàm chứa những dụng ý nghệ thuật sâu sắc. Nói cách khác thì thi pháp thị Nở chịu sự qui chiếu của thi pháp hình tượng Chí Phèo. Để nhấn mạnh nỗi khát thèm hơi ấm của con người ở Chí sâu sắc và mãnh liệt, Nam Cao không ngần ngại đẩy thị Nở về phía những đầu mút cực đoan của cái xấu, cái dở khi ông thể hiện cái nhìn nghệ thuật của mình về thị Nở ở ba điểm nhìn xấu ma chê quỉ hờn, nhà có mả hủi, dở hơi. Cả ba đặc điểm này đều tập trung triệt tiêu những khả năng thị Nở làm vợ của một người bình thường. Nam Cao còn cụ thể hóa ba đặc điểm trên bằng những chi tiết cá biệt để tạo nên cảm giác ớn sợ, kinh hãi. Thế nhưng Chí vẫn yêu, vẫn khát khao giá thế này mãi thì thích nhỉ, vẫn muốn cùng thị Nở ở một nhà cho vui, và Chí bỗng nhiên lột xác thành trẻ thơ trong veo, lương thiện khi hắn thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng thị như với mẹ. Đến đây, tuổi thơ số không và cơn khát thèm mẹ của Chí lộ nguyên hình! Một chi tiết không ngẫu nhiên nữa là năm ngày đêm đôi lứa xứng đôi này ở với nhau, đó là con số của thời gian nghệ thuật vừa đủ để con người quỉ dữ sau khi nếm trải tình đời, tình người trong nhục cảm thật lòng, sự ân cần chăm sóc được kết tụ qua hình tượng bát cháo hành và bộc bạch ngôn từ của ước mơ tội nghiệp… trở thành một người hoàn toàn khác. Cũng với chừng ấy thời gian, những năng giới được khơi tỏa, thanh lọc nên Chí mới cảm nhận được những âm vang của những người đi chợ Nam Định về kháo chuyện giá cả, của tiếng chim hót, của tiếng người đánh cá gõ thuyền trên sông. Trong thời gian ấy, Chí dường như lần đầu tiên trong đời được làm chủ về lời nói của mình, hành vi của mình, tư tưởng của mình. Trong quan niệm của Hêghen về con người trong nghệ thuật thì con người như thế mới là tinh thần Trong khi tồn tại với tính cách một đối tượng của tự nhiên, đồng thời y còn tồn tại cả cho mình nữa y tự ngắm nhìn mình, quan niệm về mình, suy nghĩ và chỉ qua cái hoạt động tồn tại vì mình như thế y mới là tinh thần. Còn theo đây chính là kiểu cá thể hình tượng mới và cao nhất, sẽ làm thay đổi tính chất của hình tượng con người Trong tiểu thuyết, con người được giao cho tính chủ động về tư tưởng và ngôn ngữ, tính chủ động này sẽ làm thay đổi tính chất của hình tượng con người kiểu cá thể hóa hình tượng mới và cao nhất. Chí chầm vập thị Nở, nhưng hoàn toàn không phải chỉ là chiếm đoạt để thỏa mãn nhu cầu nhục cảm nhất thời, mà cái quan trọng nhất Chí cảm nhận được từ mối quan hệ này là tình người, hơi ấm đồng loại. Điều đó là cơn khát mạnh nhất luôn triền miên trong dòng chảy tâm thức của Chí từ sự ám ảnh không cha không mẹ, ám ảnh bởi cái lạnh của lò gạch bỏ không, của nhưng con số không hãi hùng như một hằng số liên tiếp trong đời mình. Như vậy, Nam Cao xây dựng nhân vật thị Nở với dụng ý không chỉ tạo ra bước ngoặt trong cuộc đời Chí, mà chủ yếu là để thể hiện nỗi mong ước, khát khao làm người trong con người thứ hai của Chí mạnh mẽ biết bao, bởi thị Nở xấu như thế, tệ như thế, dở như thế mà Chí vẫn yêu và yêu một cách thành thực, yêu và hướng về mong ước vợ chồng rất đáng cảm thương, trân trọng. Xét về ý nghĩa thi pháp, hình tượng thị Nở chính là phép thử, điều kiện, chất xúc tác để con người thứ hai trong Chí hiển lộ một cách thuyết phục, biện chứng. Tất cả được đặt trên cái nền hoang lạnh với vườn chuối, bãi sông, ánh trăng của không gian nghệ thuật một cách hiệu ứng, phù hợp. Nhưng tình yêu tan vỡ, thị Nở bội tình, cái nhịp cầu mà Chí những tưởng sẽ nối đến bờ lương thiện của loài người gãy gục chóng vánh đến mức làm Chí sững sờ. Đến đây, sự bừng tỉnh trong Chí vọt trào sau sự ngỡ ngàng thoáng chốc không thể lương thiện được nữa rồi. Hành vi Chí tự sát sau khi giết bá Kiến là điểm gặp cuối cùng trong một cuộc quyết đấu gay gắt và căng thẳng của hai con người trong Chí con người ác thú và con người lương thiện đã xung đột ở đỉnh điểm mâu thuẫn, con người lương thiện đã chiến thắng qua nhát dao kết liễu con người quỷ dữ, tha hóa, vô lương. Chí gục ngã nhưng với tay về phía cõi người, nhoài người về phía thiên lương. Chí không gục ngã trước cái ác mà trước cánh cửa lương thiện với một khát khao hoàn lương mãnh liệt vô bờ. Con người thứ nhất bị kết liễu và con người thứ hai hoàn toàn hiển lộ, bừng sáng, trong veo vẻ đẹp nhân văn. Với điều ấy, Nam Cao đã sinh hạ con người ngay trong chính con người. Đó là đặc điểm cao nhất của chủ nghĩa nhân đạo. Với thi pháp xây dựng hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đã đạt đến đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực. Theo Dotstoievski, việc miêu tả con người trong con người và các chiều sâu của tâm hồn con người chính là đặc điểm của chủ nghĩa hiện thực trong ý nghĩa cao nhất Trong chủ nghĩa hiện thực đầy đủ phải tìm thấy con người trong con người … người ta gọi tôi là nhà tâm lí không đúng, tôi chỉ là nhà hiện thực chủ nghĩa trong ý nghĩa cao nhất, tức là tôi miêu tả tất cả các chiều sâu của tâm hồn con người. . Cái tài của người nghệ sĩ khi sáng tạo hình tượng là phải tạo nên được một cấu trúc hệ thống thẩm mĩ sao cho các yếu tố tương tác được với nhau mà vẫn rất tự nhiên, không hề gượng ép giữa các tầng nổi và chìm, khuất và lộ, hiển và hàm… Có như thế thì hình tượng mới thoát ra được khỏi cấp miêu tả trực cảm có tính xã hội học, mới bước sang được địa hạt thẩm mĩ, tư tưởng của văn chương; mới bao hàm được ý niệm trong trực cảm, triết luận trong tường thuật, đánh giá trong miêu tả… Nam Cao đã làm được điều đó khi sáng tạo hình tượng Chí Phèo – một nhân vật hiện thực đặc sắc – trong điểm nhìn nghệ thuật ở hai không gian nghệ thuật song hành, tương giao, ảnh hưởng và chi phối lẫn nhau hết sức biện chứng. Không gian nổi là không gian địa lí với các quan hệ xã hội của Chí trên nền làng Vũ Đại ngày ấy. Ở không gian này, mâu thuẫn, tính kịch được tạo ra từ mối quan hệ giữa Chí Phèo với bá Kiến và thị Nở. Không gian chìm là không gian tâm cảm của Chí về thân phận, nỗi niềm, về sự thiếu khát tình người, về nỗi uất ức, căm thù nhưng không thể trả thù cho đến trước cái chết. Đó là không gian trống trụi, hoang lạnh nhưng luôn cuộn sóng. Cái không gian thứ nhất mà Chí tồn tại cho ta dáng nét ngoại hình, ứng xử, hành xử của Chí trong cái vòng luẩn quẩn tay đánh lấy chân bởi tại người ta; cái không gian thứ hai chỉ độc mỗi Chí Phèo – hệ quả của một Chí Phèo thứ hai có được một phần từ những thiếu vắng và va đập, xung đột trong không gian thứ nhất, và phần khác là sức mạnh thiên lương vốn có trong con người luôn chòi giẫy, quẫy đạp. Không gian này không biên giới, không chiều kích. Trong hai không gian đó, hai con người xuất hiện, lúc thì con người bề mặt lên tiếng, lúc thì con người bên trong quằn quại. Độ đậm nhạt của mỗi con người không đều nhau ở mỗi chặng đời của Chí. Mâu thuẫn, tính kịch ở không gian thứ hai này chính là sự xung khắc giữa cái ác và cái thiện ngay trong con người Chí. Lộ trình phát triển của nó sẽ dẫn tới xung đột mất còn. Do vậy, sự gặp gỡ qua lô gích phát triển tính cách trong cuộc quyết đấu sinh tử ở điểm cuối của hai con người trong Chí tại nhà bá Kiến là chung cục tất yếu của đỉnh điểm mâu thuẫn khi Chí nhận rõ bi kịch không thể lương thiện được nữa của mình. Thi pháp xây dựng và diễn trình đặc điểm, lô gích tính cách nhân vật Chí Phèo từ cái nhìn và những điểm nhìn nghệ thuật như thế cho phép Nam Cao dùng lời văn đa giọng điệu của lối trần thuật trầm tĩnh, sắc lạnh; giấu nỗi đau trong ngôn từ đa thanh, đa trị; giấu cái bi sau cái hài; ẩn thiên lương của nhân vật dưới bề mặt nham nhở khủng khiếp của quỷ dữ. Lô gich tính cách, tâm trạng Chí phát triển trong sự chi phối nghiêm ngặt của hiện thực nên Nam Cao hoàn toàn không cần đến trữ tình ngoại đề, và việc gọi Chí là hắn, thằng này, bá Kiến bằng cụ mang tính lưỡng trị càng đẩy cao tính khách quan của sự việc, sức chinh phục của hình tượng. Qua đó, tác giả của kiệt tác này đã chuyển việc kể và tả một cách trực cảm về cuộc đời con người xã hội học trong một không gian địa lí, thời gian lịch sử xác định, hạn hẹp, cụ thể thành một con người văn học với bi kịch sâu sắc có tầm phổ quát sâu rộng mang tính nhân loại; chuyển con người vật chất thành con người tinh thần, tư tưởng. Con người, không gian và thời gian xã hội, địa lí, lịch sử của Chí Phèo là chất liệu, điều kiện để đẩy tới điểm đến của một tư tưởng nhân văn sâu sắc và cao đẹp. Cái lô gích tính cách của nhân vật chinh phục người đọc một cách thấm thía, hiệu quả và người đọc thấy lấp lánh giá trị ý niệm đằm sâu bên trong giá trị trực cảm của nhân vật bi kịch đau đớn cho cái giá làm người, sức mạnh to lớn của hai tiếng con người, cõi người. Đó là bi kịch khát thèm lương thiện mà không được lương thiện, khát thèm hơi người mà bị đẩy ra ngoài cõi người, ghê sợ cái xấu nhưng phải làm điều xấu. Chí Phèo rơi vào bi kịch tha thóa nhân cách, bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Cuộc quyết đấu cam go, sinh tử giữa Con Người và quỉ dữ mà phần thắng cuối cùng thuộc về Con Người. Nam Cao thực sự đã khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có như chính tuyên ngôn của ông. Truyện ngắn Chí Phèo đã khái quát một hiện tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam trước năm 1945, một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thể xác và tâm hồn người nông dân lao động, đồng thời khẳng định bản chất lương thiện của họ, ngay trong khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình, nhân tính. Chí Phèo là một tác phẩm có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ. Chủ đề chính của câu chuyện này là phê phán xã hội phong kiến ngày xưa. Trong truyện, có những sự xuất hiện của con người và nhân vật. Hơn nữa, nhà văn Nam Cao đã đề cao và khẳng định những phẩm chất tốt đẹp, cao quý của Chí Phèo – Thị Nở. Câu chuyện này đã nói lên sự xung đột vô cùng quyết liệt của các tầng lớp khác nhau trong xã hội phong kiến. Phân tích truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao.

nghệ thuật chí phèo